Năm 2021 - năm thứ hai dưới ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, từ quan điểm “Zero Covid” đến quan điểm “bình thường mới” (sống chung với Covid), với sự chỉ đạo kịp thời của Quốc hội và Chính phủ, kinh tế Việt Nam đã có dấu hiệu khởi sắc rõ nét vào những tháng cuối năm.
Những điểm sáng của kinh tế Việt Nam năm 2023
Từ quý IV/2022, những bất ổn của kinh tế thế giới, các nền kinh tế lớn rơi vào suy thoái, lạm phát gia tăng, Chính phủ Mỹ và nhiều nước phải áp dụng chính sách "siết chặt tiền tệ"…, đã ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam. Mặc dù có nhiều thách thức, nền kinh tế Việt Nam đã nỗ lực vượt qua "cơn gió ngược" với nhiều điểm sáng.
Thứ nhất, tăng trưởng vẫn là "điểm sáng" của khu vực và thế giới. Bối cảnh kinh tế năm 2023 có diễn biến phức tạp, các dự báo tăng trưởng liên tục phải điều chỉnh cho phù hợp với thực tế, cuối cùng tăng trưởng cũng đã về đích ở mức 5,05%. Dù không đạt mục tiêu, song đây là con số khá ấn tượng và là điểm sáng của nền kinh tế. Việt Nam trở thành nước có tốc độ tăng trưởng vượt trội trong khu vực và thế giới trong năm 2023 (gấp 1,68 lần mức chung của thế giới).
Đáng chú ý, tăng trưởng quý sau luôn cao hơn quý trước: Quý I tăng trưởng chỉ 3,41%, quý II đạt 4,25%, quý III vượt lên 5,47% và quý IV đạt mức 6,72%. Đây là điểm sáng thể hiện bản lĩnh "kiên cường vượt các cơn gió ngược" của nền kinh tế.
Năm 2023, các mặt hàng nông sản ghi dầu ấn nổi bật như: Gạo ước đạt 4,78 tỷ USD, tăng 38,4%; rau quả ước đạt 5,69 tỷ USD, tăng 69,3% và sầu riêng ước đạt 2,3 tỷ USD - Ảnh: VGP
Thứ hai, nông nghiệp tăng trưởng ổn định, tiếp tục là "điểm sáng" của nền kinh tế. Ngành nông nghiệp trong năm 2023 đạt mức tăng trưởng cao, ở mức 3,83% (chỉ tiêu 3 - 3,5%), đóng góp 8,84% vào mức tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế, giữ vững vai trò "bệ đỡ" và là "trụ chính" của nền kinh tế.
Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 53,01 tỷ USD, xuất siêu 12,07 tỷ USD, tăng 43,7% so với cùng kỳ năm trước.
Có thể nói, ngành nông nghiệp năm 2023 vẫn là "điểm sáng" nổi bật của nền kinh tế.
Khu vực dịch vụ tăng 6,82%, đóng góp 62,29% GDP của cả nước
Thứ ba, khu vực dịch vụ tiếp tục đóng góp quan trọng vào GDP, trong đó du lịch nổi lên là "điểm sáng" của nền kinh tế năm 2023.
Báo cáo của Tổng cục Thống kê, năm 2023, khu vực dịch vụ tăng 6,82%, đóng góp 62,29% GDP của cả nước. Đây là mức tăng trưởng thấp hơn so với cùng kỳ năm 2022 về tốc độ tăng trưởng (9,99%) nhưng mức đóng góp trong GDP cao hơn năm 2022 (56,65%)..
Đáng chú ý, sự gia tăng vượt bậc của ngành du lịch trong năm 2023, với lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt 12,6 triệu lượt người, tăng gấp 3,4 lần năm 2022 và vượt xa chỉ tiêu đặt ra hồi đầu năm (8 triệu người). Doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 37,8 nghìn tỷ đồng và tăng 52,5% so với cùng kỳ năm trước.
Có thể nói, năm 2023 du lịch Việt Nam đã lấy lại phong độ và trở thành "điểm sáng" của nền kinh tế.
Năm 2023, Việt nam có 35 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD (chiếm 93,6 % tổng kim ngạch xuất khẩu), trong đó có 7 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD
Thứ tư, lĩnh vực xuất khẩu năm 2023 có nhiều mặt tích cực. Mặc dù động lực tăng trưởng của nền kinh tế đến từ xuất, nhập khẩu bị ảnh hưởng lớn chủ yếu do ảnh hưởng của thị trường thế giới, nhưng kim ngạch xuất khẩu được cải thiện dần, đặc biệt vào các tháng cuối năm.
Nếu 9 tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giảm 8,2% so với cùng kỳ năm trước, thì trong quý IV/2023, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 96,5 tỷ USD, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước và tăng 3,2% so với quý III/2023. Tính chung cả năm 2023 kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 355,5 tỷ USD, giảm 4,4 % so với cùng kỳ năm 2022, mức suy giảm xuất khẩu của nền kinh tế đã được cải thiện. Các ngành hàng xuất chủ lực tại nhiều địa phương trong cả nước vào các tháng cuối năm đều phát ra tín hiệu lạc quan.
Xuất siêu 28 tỷ USD, vượt xa năm 2022 (11,2 tỷ USD). Đây là năm thứ 8, Việt Nam duy trì được thặng dư cán cân ngoại thương, với mức xuất siêu năm sau cao hơn năm trước.
Thu hút vốn FDI của Việt Nam vẫn gia tăng khả quan
Thứ năm, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục gia tăng, Việt Nam là "điểm đến" hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài.
Tính đến ngày 20/12/2023, tổng vốn FDI đăng ký đạt gần 36,6 tỷ USD, tăng 32,1% so với cùng kỳ năm trước; vốn FDI thực hiện ước đạt 23,18 tỷ USD.
Với 3.188 dự án được cấp phép, số vốn đăng ký đạt 20,19 tỷ USD, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được cấp phép mới nhiều nhất với số vốn đăng ký đạt 15,85 tỷ USD, chiếm 78,5% tổng số vốn đăng ký cấp mới. Điều này chứng tỏ các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao tiềm năng đầu tư vào các ngành công nghiệp tại Việt Nam.
Thứ sáu, phát triển hạ tầng giao thông, mở rộng kết nối vùng, liên vùng có bước tiến mới.
Kiên định mục tiêu, cơ sở hạ tầng kỹ thuật phải đi trước một bước, tạo đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội, trong năm 2023, Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt, đẩy mạnh giải ngân đầu tư công, đảm bảo tiến độ thực hiện các dự án giao thông. Kết quả nổi bật, ngày 24/12/2023 lần đầu tiên đã diễn ra lễ khánh thành và đưa vào khai thác bốn dự án giao thông: Dự án đầu tư xây dựng mở rộng Cảng hàng không Điện Biên; Dự án cao tốc Tuyên Quang - Phú Thọ; Dự án cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ thuộc dự án cao tốc Bắc - Nam phía Đông; Dự án cầu Mỹ Thuận 2 bắc qua sông Tiền.
Khánh thành cùng lúc 4 dự án với tổng vốn đầu tư gần 18.000 tỷ đồng là một "dấu mốc lịch sử", tạo thêm nguồn lực và động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội cùng các địa phương và cả nước.
Thứ bảy, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý, đảm bảo các cân đối của nền kinh tế, tạo tiền đề, điều kiện cho kiến tạo phát triển.
Dù có những biến động lớn từ thị trường thế giới, những bất ổn về tình hình chính trị, xung đột khu vực và những khó khăn từ trong nước, song Chính phủ đã điều hành nền kinh tế, bảo đảm sự ổn định và phát triển.
Kiểm soát lạm phát mục tiêu đạt kết quả tốt, tỷ lệ lạm phát đạt dưới mức chỉ tiêu năm 2023 (CPI bình quân năm 2023 tăng 3,25% so với cùng kỳ/chỉ tiêu năm 2023: 4,5%).
Giải ngân vốn đầu tư công đã có nhiều chuyển biến tích cực, quý sau tăng cao hơn quý trước, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố nội lực của nền kinh tế. Các chỉ số quản lý nợ công tiếp tục giữ vững và cải thiện.
Tổng thu ngân sách Nhà nước lũy kế năm 2023 đạt 106% dự toán năm, tuy giảm 5,4% so với cùng kỳ năm trước song phản ảnh nỗ lực của cả nền kinh tế.
Dự trữ ngoại hối của Việt Nam năm 2023 có xu hướng gia tăng (sau khi có sự giảm sút do Ngân hàng Nhà nước bán ra khoảng 20% tổng dự trữ ngoại hối để ổn định tỉ giá), đến tháng 5/2023 theo VnDirect và IMF, dự trữ ngoại hối của Việt Nam có thể đạt khoảng 93-95 tỷ USD.
Động lực tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2024
Với những cơ sở trên, năm 2024, Việt nam đặt mục tiêu tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước từ 6 - 6,5%, tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế được dự báo còn nhiều khó khăn, trong điều kiện hồi phục kinh tế thế giới "ấm dần" từ những tháng cuối năm 2023, song chưa vững chắc và yếu tố bất định có thể xảy ra.
Nhận diện và phát huy các động lực tăng trưởng có ý nghĩa hết sức quan trọng để điều hành và phát triển nền kinh tế trong năm 2024.
Thứ nhất, sự ổn định và phát triển theo chiều sâu của ngành nông nghiệp vẫn là một lợi thế và cột trụ quan trọng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế năm 2024. Khai thác lợi thế cạnh tranh và năng lực đổi mới sản phẩm, nắm bắt thị trường sẽ giúp ngành nông nghiệp tiếp tục gia tăng đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế.
Thứ hai, sự hồi phục của ngành công nghiệp là nhân tố quan trọng, không chỉ đóng góp vào tăng trưởng mà còn thúc đẩy gia tăng xuất - nhập khẩu năm 2024. Những nỗ lực của các doanh nghiệp công nghiệp, sự "ấm dần" của thị trường quốc tế, cho phép dự báo tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp từng bước được khôi phục và phát triển trong năm 2024.
Thứ ba, tăng trưởng ngoại thương sụt giảm năm 2023 được dự báo sẽ được hồi phục trong năm 2024. Các tín hiệu hồi phục đã xuất hiện từ quý III, đặc biệt là các tháng cuối năm 2023, sẽ thúc đẩy mặt trận xuất khẩu trong năm 2024 và tiếp tục là động lực quan trọng cho tăng trưởng GDP của nền kinh tế năm 2024.
Thứ tư, khu vực dịch vụ có đóng góp lớn vào tăng trưởng GDP của nền kinh tế và đã duy trì được tốc độ tăng trưởng khá trong năm 2023. Năm 2024, sự ấm lên của thị trường bất động sản sẽ giúp "kích hoạt" nhiều ngành nghề và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Du lịch khởi sắc năm 2023, dự báo nếu có chính sách tích cực, sẽ tiếp tục gia tăng trong năm 2024 và là động lực cho sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Như vậy dưới góc độ tổng cung, dư địa tăng trưởng của năm 2024 đều có tín hiệu khả quan, trong đó động lực mạnh mẽ của năm 2024 sẽ là sự hồi phục của sản xuất công nghiệp, đóng góp của hoạt động xuất khẩu hàng hóa và sự "ấm lên" của thị trường bất động sản.
Thứ năm, dưới góc độ tổng cầu, gia tăng tiêu dùng trong nước sẽ có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng năm 2024. Các chính sách vĩ mô đã được thực hiện từ năm 2023 như giảm thuế VAT, hỗ trợ người tiêu dùng thông qua giảm phí, lệ phí… cần tiếp tục thực hiện trong năm 2024, thậm chí có thể tăng mức giảm thuế VAT từ 3 - 5 %; thực hiện lộ trình cải cách tiền lương, nỗ lực giảm giá hàng hóa - dịch vụ từ phía các doanh nghiệp, các hình thức khuyến mãi mua sắm, chi tiêu du lịch trong nước… sẽ góp phần gia tăng sức mua nội địa vốn bị suy giảm từ thời dịch bệnh COVID-19.
Thứ sáu, năm 2024 chi tiêu công của Chính phủ, đặc biệt là đầu tư công vẫn là động lực quan trọng để kích thích tăng trưởng về phía tổng cầu, đồng thời gia tăng được nội lực của nền kinh tế. Để thúc đẩy giải ngân đầu tư công, các "nút thắt" về thủ tục tài chính, sự hợp tác linh hoạt và nhanh chóng giữa bộ ngành - địa phương - các nhà đầu tư… cần được đẩy mạnh hơn trong năm 2024.
Thứ bảy, sự giảm sút của đầu tư tư nhân trong năm 2023 cần được khơi thông mạnh mẽ và có giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trên cơ sở tái cấu trúc ngành nghề, sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, mở rộng thị trường đầu ra, khuyến khích đầu tư vào kinh tế xanh, kinh tế số, đổi mới sáng tạo,… Sự "ấm lên" của đầu tư tư nhân sẽ là nhân tố hết sức quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong năm 2024 và các năm tiếp theo.
Thứ tám, động lực mới đến từ ngoại giao kinh tế sẽ là "đột phá" quan trọng của Việt Nam trong năm 2024. Các sự kiện ngoại giao quan trọng vào cuối năm 2023, đó là việc nâng cấp quan hệ lên tầm Đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam với Mỹ và giữa Việt Nam với Nhật Bản đã mở ra cơ hội mới để Việt Nam mở rộng hơn nữa quan hệ kinh tế quốc tế.
Dự báo trong năm 2024, nền kinh tế Mỹ tiếp tục duy trì đà tăng trưởng dựa vào thị trường nội địa, đầu tư công và phát triển các ngành kinh tế mới như trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học và năng lượng sạch, năng lượng tái tạo.
Đặc biệt, với việc các tập đoàn lớn của Mỹ như Intel, Apple, Google, Walmart, Boeing… nghiên cứu đầu tư mở rộng chuỗi cung ứng tại Việt Nam. Các công ty lớn của Mỹ cũng đặc biệt quan tâm đến khai thác tiềm năng của Việt Nam trong lĩnh vực bán dẫn, chuyển đổi năng lượng sạch, đào tao nhân lực chất lượng cao.
Năm 2023, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Mỹ đạt gần 111 tỷ USD, tiếp tục duy trì là thị trường xuất siêu lớn nhất của Việt Nam. Năm 2024 với sự tiếp tục "ấm lên" và gia tăng sức mua tại thị trường nội địa của Mỹ, cơ hội gia tăng xuất khẩu của Việt Nam là rất lớn, đặc biệt là hàng nông sản và công nghiệp chế biến, chế tạo.
Có thể nói, quan hệ kinh tế Việt - Mỹ và các nước khác không chỉ là động lực cho tăng trưởng kinh tế, mà sẽ là "sung lực" mới cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2024 và các năm tiếp theo.
Nguyên Trưởng Khoa Kinh tế, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐHQG TPHCM
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, ước tính tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2021 tăng 2,58% và đây cũng là mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2011-2021 do ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19.
Tổng cục Thống kê cho biết, ước tính GDP năm 2021 tăng 2,58% là kết quả từ quý I tăng 4,72%; quý II tăng 6,73%; quý III giảm 6,02% và quý IV tăng 5,22%. Tăng trưởng GDP năm nay thấp hơn cả năm 2020 do dịch Covid-19 ảnh hưởng nghiêm trọng tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là trong quý III khi nhiều địa phương kinh tế trọng điểm phải đình trệ sản xuất để thực hiện giãn cách xã hội kéo dài phòng chống dịch bệnh.
Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,9%, đóng góp 13,97% vào tốc độ tăng của tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,05%, đóng góp 63,80%. Khu vực dịch vụ tăng 1,22%, đóng góp 22,23%.
Nếu chỉ tính riêng quý IV/2021, GDP ước tính tăng 5,22% so với cùng kỳ năm trước nhưng đều thấp hơn quý IV của các năm trong giai đoạn trước đại dịch 2011-2019.
Nông nghiệp là trụ cột của nền kinh tế
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, năng suất của phần lớn cây trồng đạt khá so với năm trước, chăn nuôi tăng trưởng ổn định, kim ngạch xuất khẩu một số nông sản năm 2021 tăng cao góp phần duy trì nhịp tăng trưởng của cả khu vực.
Ngành nông nghiệp tăng 3,18%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế, ngành lâm nghiệp tăng 3,88%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm và ngành thủy sản tăng 1,73%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm.
Năm nay, hoạt động nông, lâm nghiệp và thủy sản diễn ra trong tình hình thời tiết tương đối thuận lợi, giúp năng suất cây trồng và chăn nuôi đạt khá. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của các biện pháp giãn cách xã hội kéo dài tại nhiều địa phương gây ảnh hưởng tới chuỗi cung ứng sản xuất – chế biến – tiêu thụ các sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Dù vậy, kết quả sản xuất nông nghiệp năm 2021 của cả nước vẫn ở mức khá. Cụ thể, năng suất lúa ước đạt 60,6 tạ/ha, tăng 1,8 tạ/ha; sản lượng lúa đạt 43,88 triệu tấn, tăng 1,1 triệu tấn. Tuy nhiên, kết quả sản xuất một số cây hằng năm có sự giảm nhẹ như sản lượng ngô giảm 2,9% so với năm 2020; khoai lang giảm 11,2%; đậu tương giảm 9,5%...
Kết quả hoạt động năm 2021 của ngành nông nghiệp đã thể hiện rõ vai trò bệ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu, là cơ sở quan trọng để thực hiện an sinh, an dân trong đại dịch.
Ngành công nghiệp chế biến chế tạo là động lực tăng trưởng chính
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6,37%, đóng góp 1,61 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,24%, đóng góp 0,19 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng giảm 6,21%, làm giảm 0,23 điểm phần trăm do sản lượng dầu mỏ thô khai thác giảm 5,7% và khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 19,4%. Ngành xây dựng tăng 0,63%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm.
Đây là kết quả khởi sắc của ngành sau khi các địa phương trên cả nước thực hiện Nghị quyết 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ về thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19
Về ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, chỉ số tiêu thụ toàn ngành tháng 12/2021 tăng 5,9% so với tháng trước và tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2021, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,5% so với năm 2020 (năm trước tăng 3,3%).
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tới ngày 31/12/2021 tăng 0,1% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 21,9% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 25,3%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân năm 2021 là 79,1% (năm 2020 là 71,9%).
Thương mại, dịch vụ hồi phục sau đại dịch
Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp từ cuối tháng 4 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại và dịch vụ. Tăng trưởng âm của một số ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn đã làm giảm mức tăng chung của khu vực dịch vụ và toàn bộ nền kinh tế.
Ngành bán buôn, bán lẻ giảm 0,21% so với năm trước, làm giảm 0,02 điểm phần trăm trong tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế, ngành vận tải kho bãi giảm 5,02%, làm giảm 0,3 điểm phần trăm, ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm mạnh 20,81%, làm giảm 0,51 điểm phần trăm.
Trong quý IV/2021, hoạt động thương mại, vận tải trong nước, khách du lịch quốc tế dần khôi phục trở lại. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý IV/2021 tăng 28,1% so với quý trước; vận tải hành khách tăng 48,4%, luân chuyển hành khách tăng 51,3% và vận chuyển hàng hóa tăng 31,8%, luân chuyển hàng hóa tăng 28,4%; khách quốc tế đến nước ta tăng 62,7%.
Cụ thể, lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong Quý IV/2021 đạt 42.700 lượt người, tăng 62,7% so với quý III/2021 và giảm 12,4% so với cùng kỳ năm 2020. Tính chung năm 2021, khách quốc tế đến nước ta ước đạt 157.300 lượt người, giảm 95,9% so với năm trước.
Ngược lại, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội đạt tốc độ tăng cao nhất trong khu vực dịch vụ với mức tăng 42,75%, đóng góp 0,55 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 9,42%, đóng góp 0,52 điểm phần trăm; ngành thông tin và truyền thông tăng 5,97%, đóng góp 0,36 điểm phần trăm.
Thị trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ giữa đại dịch
Năm 2021, trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành lãi suất phù hợp, tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng tiếp tục giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi. Tính đến 24/12. tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 12,97%.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm ổn định, ước tính cả năm 2021 doanh thu phí toàn thị trường bảo hiểm tăng 15,6% so với năm trước, trong đó doanh thu phí bảo hiểm lĩnh vực nhân thọ tăng 21,7%; lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ tăng 1,7%.
Thị trường chứng khoán phát triển mạnh với mức vốn hóa thị trường cổ phiếu năm 2021 tăng 45,5% so với cuối năm trước. Tính đến ngày 27/12/2021, giá trị giao dịch bình quân trên thị trường cổ phiếu đạt 26.526 tỷ đồng/phiên, tăng 257,5% so với bình quân năm trước. Giá trị giao dịch bình quân trên thị trường trái phiếu đạt 11.421 tỷ đồng/phiên, tăng 9,9%. Khối lượng giao dịch bình quân sản phẩm hợp đồng tương lai trên chỉ số VN30 trên thị trường chứng khoán phái sinh đạt 189.923 hợp đồng/phiên, tăng 21%.
Thu hút vốn đầu tư FDI hồi phục trong những tháng cuối năm
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành năm 2021 đạt 2.891,9 nghìn tỷ đồng, tăng 3,2% so với năm trước, tuy đây là mức tăng thấp nhất trong nhiều năm qua nhưng là kết quả khả quan trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trong nước và trên thế giới.
Trong khi vốn từ khu vực Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài giảm (lần lượt là 2,9% và 1,1%) so với năm trước thì vốn từ khu vực ngoài Nhà nước lại tăng mạnh 7,2% và chiếm tỉ trọng 59,5%.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) phục hồi, vốn đăng ký mới và vốn đăng ký tăng thêm tăng trở lại cho thấy nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục tin tưởng vào môi trường đầu tư Việt Nam.
Tính đến ngày 20/12/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9,2% so với năm 2020.
Trong năm 2021 vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài có sự tăng nhẹ với 61 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 409,1 triệu USD, tăng 28,6% so với năm trước; có 22 lượt dự án điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn điều chỉnh giảm 776 triệu USD.
Do tháng 12/2021, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã điều chỉnh vốn giảm 1,2 tỷ USD của dự án thăm dò phát triển và khai thác dầu khí tại Nga. Nếu không tính dự án này, tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) năm 2021 đạt 828,7 triệu USD.
Thu ngân sách Nhà nước vượt dự toán 13%
Nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế tiếp tục phục hồi giúp cho thu ngân sách Nhà nước ước tính cả năm 2021 đạt 1.523,4 nghìn tỷ đồng và vượt dự toán năm 13,4% (tăng 180,1 nghìn tỷ đồng).
Chi ngân sách Nhà nước tập trung ưu tiên cho công tác phòng, chống dịch Covid-19, khắc phục thiên tai, đảm bảo quốc phòng, an ninh và hỗ trợ người dân gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh. Tổng chi ngân sách Nhà nước năm 2021 ước tính đạt 1.839,2 nghìn tỷ đồng, bằng 109% dự toán năm.
Về cơ cấu nền kinh tế năm 2021, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 12,36%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,86%; khu vực dịch vụ chiếm 40,95%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,83%.
Về sử dụng GDP năm 2021, tiêu dùng cuối cùng tăng 2,09% so với năm 2020; tích lũy tài sản tăng 3,96%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 14,01%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 16,16%.
Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Thị Hương